CHUYÊN ĐỀ THƠ
I. LÍ THUYẾT
1. Thơ trong mối quan hệ với hiện thực
Thơ là cuộc hôn phối giữa con người và vũ
trụ. Thơ luôn tìm về với cuộc sống, thơ ở trong cuộc sống nên “Nhà thơ tuy
chẳng muốn, cũng thấy mình bị ràng buộc vào cuộc biến chuyển của lịch sử”
(Saint John Perse). Như vậy, dù ý thức hay vô thức, thơ vẫn chảy trong biển lớn
cuộc đời và nhà thơ không thể đứng ngoài dòng chảy ấy. Hơn ai hết, họ phải là
người cảm nhận cuộc sống mãnh liệt nhất, tế vi nhất.
“Thơ phản ảnh đời sống con người trên toàn
diện sinh động của nó từ mặt tầng (hành động) tới đáy tầng (tâm linh) qua hết
mọi phương diện xã hội”
2. Nhà thơ và quá trình sáng tạo
Để đi vào thế giới nghệ thuật thơ, có lẽ
chúng ta cần xác định nhà thơ - họ là ai? Vì chính sứ mệnh nhà thơ chi phối quá
trình sáng tạo thi ca. Với Trần Nhựt Tân, “Thi sĩ là người duy nhất có
được ngôn ngữ: hắn đã vượt thóat được ngôn ngữ. Thi sĩ là người duy nhất có thể
vượt thoát được hố thẳm, lập ngôn”. “Thơ là những xúc động đặc biệt được diễn
tả bằng một ngôn ngữ đặc biệt của một sinh linh có năng khiếu đặc biệt mệnh
danh là thi sĩ”.
Như vậy, trong quan niệm của các nhà lý
luận phê bình văn nhà thơ không phải là người bình thường mà là người nghệ sĩ
có phẩm chất khác thường. Thật vậy, sáng tạo thi ca là quá trình phức tạp. Như
một ngọn nến, thi nhân tự đốt cháy tâm hồn mới mong thơ tỏa sáng giữa cuộc đời.
Vì “thơ là kết tinh, thơ là ngọc đọng,
thơ là phiến Kỳ nam trong rừng trầm hương, thơ là hạt minh châu trong biển hạt
trai, thơ là tinh hoa trong vườn phương thảo”. Quá trình sáng tạo của nhà
thơ là sự kết tinh của “hồn thơ”. Để sáng tác thi ca ngoài phần kỹ
thuật, thi pháp cũng như nội dung tư tưởng, “còn đòi hỏi một nguyên lý sinh
động đó là cái hồn thơ, cái khả năng cảm hứng và diễn tả của nhà thơ nó làm cho
nội dung kết cấu với hình thức và bài thơ có một sức sống linh diệu” (Nguyễn Sỹ
Tế). Và “Những chất thơ có được trong tác phẩm đều xuất phát từ một hồn
thơ. Hồn thơ là nguồn suối nguyên sinh
của cái đẹp nghệ thuật tìm thấy trong một sáng tạo đam mê” (Trần Nhựt Tân).
Với các nhà lý luận phê bình văn học, hồn
thơ là yếu tố không thể thiếu trong quá trình sinh thành thơ ca. Nó không những
là nguyên nhân, động lực, là “nỗi niềm tinh vân” dậy lên đam mê và
khát khao sáng tạo mà còn là tiếng gọi từ trong vô thức của người thơ. “Chất
thơ thường hướng về tác phẩm, tức là ngoại giới, hồn thơ là dư vang chưa thành
hình còn đang ở trong trạng thái tiềm thế, đồng hóa với mỹ cảm sống động trong
tâm hồn thi sĩ”
3. Ngôn ngữ và hình ảnh thơ
“Thơ là nghệ thuật lấy ngôn ngữ làm cứu
cánh” (Jakobson). Đó là thứ ngôn ngữ được chưng cất công phu vì “bài thơ là tổ
chức ở trình độ cao của ngôn ngữ, một tổ chức chặt chẽ tinh tế của ngôn ngữ”.
Vì vậy với các nhà lý luận phê bình văn học, ngôn ngữ thơ là một phương tiện
hình thức luôn được coi trọng, ngôn ngữ luôn là một giá trị không thể phủ nhận
trong thơ, vì “thơ tức là phần tinh lọc nhất của ngôn ngữ” (Nguyễn Quốc Trụ).
Và “ngôn ngữ thi ca là thứ ngôn ngữ kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ và tư tưởng
và nhiệm vụ của thi nhân là phải tạo nên sự nhiệm màu kỳ diệu ấy”. Đây mới thực
sự là yếu tố làm nên giá trị thơ ca. Tư tưởng trong ngôn ngữ thơ như một chiếc
dây diều vừa đưa thơ cất cánh bay cao, bay xa trong bầu trời của thực và mộng
vừa neo thơ lại với bầu khí quyển đời sống. Ngôn ngữ thơ theo Phú Hưng “không phải là một thứ ngôn ngữ xác ve sau
mùa hè đã im bặt tiếng kêu mà đó là một thứ ngôn ngữ không ngừng biến sinh mãnh
liệt”. Song ngôn ngữ trong thơ
không phải là ngôn ngữ nguyên sinh của đời sống. Đó là ngôn ngữ có giá trị tạo
nghĩa, là một thứ “bóng chữ”. Nó có một “ma lực” riêng, nhiều
khi vượt thoát khỏi ý thức của người cầm bút để trở thành một thứ ám ảnh của vô
thức. Như một “tiếng chim gọi đàn”, nó tràn ra ngòi bút của thi nhân
và phóng chiếu thành những cảm hứng sáng tạo. Ngôn ngữ thơ vì thế “không những
khác biệt ngôn ngữ nhật dụng, nó còn biệt lập với người cầm bút, nó còn khả
năng tự tồn, sinh sôi, nẩy nở “Chữ đẻ ra chữ và ra nghĩa” (Bùi Hữu Sủng)
4. Quan niệm về nhạc tính và âm điệu trong
thơ
Cùng
với ngôn ngữ và hình ảnh, nhạc tính và âm điệu trong thơ cũng là một yếu tố thi
pháp được các nhà lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam đề cập khá nhiều
trong quan niệm thơ của mình. Theo họ, “Nhạc
điệu là một yếu tính của thi ca. Thiếu nhạc tính thơ trở thành văn xuôi”. Bởi
nhạc tính như một nét duyên thầm làm nên vẻ đẹp của thơ, cũng là một yếu tố tạo
mỹ cảm cho người đọc. “Ly khai với nhạc
tính, thơ chỉ còn là một nhan sắc trơ trẽn thiếu duyên”(Tam Ích). Và “Thơ là sự phối hợp của âm thanh”. Thơ
bao giờ cũng là sự kết hợp hài hòa giữa ý và nhạc. Nếu “rơi vào cái vực ý thì thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực
nhạc thì thơ dễ làm say lòng người nhưng dễ nông cạn” (Chế Lan Viên). Rõ
ràng, nhạc tính là tiếng nói linh diệu của thi ca, gợi thức trí tưởng tượng của
người đọc, nói như La Fontaine “Chẳng có thơ nào không có nhạc, song
chẳng có thơ nào không có tưởng tượng”.
Là một yếu tố không thể thiếu trong thơ,
nhạc được tạo nên từ cách dùng ngôn ngữ, cách gieo vần, phối thanh... Nếu ngôn
ngữ và hình ảnh là những yếu tố song hành thì âm điệu cũng là yếu tố đồng hành
với tính nhạc. Nói một cách hình ảnh, nếu ngôn ngữ là sợi dây đàn thì nhạc tính
và âm điệu là những cung bậc thanh âm ngân lên từ sợi dây đàn ấy, “âm điệu là bố cục của tiết nhịp” mà “nhạc tính là dây giao cảm của từng yếu tố
trong toàn bộ bố cục ấy”(Trần Nhựt Tân). Vì vậy trong quan niệm lý luận phê
bình văn học , âm điệu cũng là một yếu tố hình thức nghệ thuật quan trọng trong
thơ. Việc kiến tạo âm điệu trong thơ cũng chính là kiến tạo nhạc tính. Và âm
điệu cũng là chiếc cầu nối thơ với người đọc, nói như Trần Nhựt Tân “âm điệu là một cảm nghiệm thi tánh như một
sinh khí hội thoại của thơ với người thưởng lãm”
Quan niệm về ngôn ngữ, hình ảnh, âm điệu
và nhạc tính trong thơ của lý luận phê bình văn học cũng tương hợp với quan
niệm thơ phương Tây và quan niệm thơ ca truyền thống của dân tộc. Bởi đây là
những hằng số giá trị của thơ ca. Nhưng thơ vẫn còn những ẩn số khác mà con
người phải khám phá trong quá trình tìm đến bản thể thơ. “Thơ là vần điệu. Thơ là ý nghĩa tác động lên tâm hồn người đọc. Thơ là
ẩn dụ nhằm gây rung động hay cảm xúc” (Huỳnh Phan Anh). Thơ mãi là một thế
giới đầy bí ẩn mà khi giải mã, không phải lúc nào cũng có sự thống nhất;
ngay cả trong quan niệm về việc chú giải, phê bình.
-----------------------------------------------------
1. Khái lược
về thơ trữ tình:
- Thơ là một thể loại VH được xây dựng bằng hình thức
ngôn ngữ ngắn gọn súc tích, theo những quy luật ngữ âm nhất định, nhằm phản ánh
tâm trạng, thái độ, tình cảm,... của người nghệ sĩ về đ/s thông qua những hình
tượng NT.
- Trữ tình là phương thức phản ánh (hiện thực đ/s;
hiện thực tâm trạng) bằng cách bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý thức của tác giả
thông qua cái tôi trữ tình, mang đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể.
- Thơ trữ tình dùng để chỉ chung các thể thơ thuộc
loại trữ tình, trong đó nhà thơ bộc lộ một cách trực tiếp những cảm xúc riêng
tư, cá thể về đ/s, thể hiện tư tưởng về con người, cuộc đời và thời đại nói
chung. Nội dung của thơ trữ tình là biểu hiện tư tưởng, tình cảm làm sống dậy
cái thế giới chủ thể của hiện thực khách quan, giúp ta đi sâu vào thế giới của
những suy tư tâm trạng, nỗi niềm.
2. Đặc điểm
chung của thơ trữ tình:
2.1. Tính
trữ tình:
Trữ tình là yếu tố quyết định tạo nên chất thơ. TP thơ
luôn thiên về diễn tả những cảm xúc, rung động, suy tư của chính nhà thơ về
cuộc đời. Những rung động ấy xét đến cùng là những tiếng dội của những sự kiện,
những hiện tượng đ/s vào tâm hồn nhà thơ. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của TP
thơ. Nắm vững đặc điểm này ta sẽ có một định hướng rõ ràng trong việc tiếp cận,
phân tích đúng TP thơ. Nghĩa là, khi phân tích TP thơ, ta không phải đi sâu vào
mổ xẻ, cắt nghĩa, lí giải về các chi tiết, sự kiện, sự việc được nhà thơ đề
cập, mà điều cốt lõi là thấy và nói được những cảm xúc, tâm trạng, thái độ và
suy tư của nhà thơ về các vấn đề trên.
2.2. Chủ thể
trữ tình:
Trong TP thơ ta luôn bắt gặp bóng dáng con người đang
nhìn, ngắm, đang rung động, suy tư về cuộc sống. Con người ấy được gọi là chủ
thể trữ tình. Nói cách khác, chủ thể trữ tình là con người đang cảm xúc, suy tư
trong TP thơ. Nhân vật trữ tình trong TP thơ chỉ hiện diện, đối thoại với độc
giả bằng những sắc thái tình cảm, thái độ tình cảm. Trong TP thơ, chủ thể trữ
tình là yếu tố luôn có mặt để thể hiện nội dung trữ tình của TP. Cho nên, khi
phân tích thơ, ta phải phân tích nội dung trữ tình. Muốn phân tích nội dung trữ
tình thì nhất thiết, nắm bắt và phân tích được chủ thể trữ tình. Bởi lẽ, nội
dung trữ tình luôn chứa trong chủ thể trữ tình.
2.3.Nội dung
phản ánh trong thơ trữ tình:
2.3.1.Thơ
trữ tình biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người.
Trong TP trữ tình, tình cảm, cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ ... được trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu của TP. Ở đây, nhà thơ có thể biểu hiện cảm xúc cá nhân mình mà không cần kèm theo bất cứ một sự miêu tả biến cố, sự kiện nào. Người đọc cảm nhận trước hết là thế giới nội tâm, là thái độ xúc cảm và tâm trạng của nhân vật trữ tình đối với con người, cuộc đời và thiên nhiên. Nhà thơ có thể không cần phải miêu tả kỹ về con người và những nguyên nhân cụ thể dẫn tới những tình cảm đó. Ðiều này chứng tỏ sự biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của tác giả là đặc điểm tiêu biểu, đầu tiên của TP trữ tình.
Trong TP trữ tình, tình cảm, cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ ... được trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu của TP. Ở đây, nhà thơ có thể biểu hiện cảm xúc cá nhân mình mà không cần kèm theo bất cứ một sự miêu tả biến cố, sự kiện nào. Người đọc cảm nhận trước hết là thế giới nội tâm, là thái độ xúc cảm và tâm trạng của nhân vật trữ tình đối với con người, cuộc đời và thiên nhiên. Nhà thơ có thể không cần phải miêu tả kỹ về con người và những nguyên nhân cụ thể dẫn tới những tình cảm đó. Ðiều này chứng tỏ sự biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của tác giả là đặc điểm tiêu biểu, đầu tiên của TP trữ tình.
2.3.2. Thơ trữ tình phản ánh thế giới
khách quan nhằm biểu hiện thế giới chủ quan.
TP trữ tình biểu hiện cảm xúc chủ quan của nhà thơ
nhưng điều đó cũng được xác lập trong mối quan hệ giữa con người và thực tại
khách quan bởi vì mọi cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ của con người bao giờ cũng
đều là cảm xúc về cái gì, tâm trạng trước vấn đề gì...Do đó, hiện tượng c/s vẫn
được thể hiện trong TP trữ tình. Mặc dù thể hiện thế giới chủ quan của con
người, TP trữ tình vẫn coi trọng việc miêu tả các sự vật, hiện tượng trong đ/s
khách quan bằng các chi tiết chân thật, sinh động. Như vậy, TP trữ tình
cũng phản ánh thế giới khách quan nhưng chức năng chủ yếu của nó là nhằm biểu
hiện những cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ ...của con người.
2.3.4.Đặc
điểm của ngôn ngữ thơ trữ tình:
2.4.1.Ngôn
ngữ thơ trữ tình hàm súc, cô đọng
Để có một vần thơ lắng đọng, các nhà thơ phải lao động
hết mình để lựa chọn ra những ngôn từ thơ tốt nhất diễn tả được cảm xúc tình
cảm của mình. Đó là sự gọt giũa về mặt ngôn từ để tạo ra những từ ngữ thơ mà
đọc lên người đọc ấn tượng và hiểu thấu nội dung tư tưởng nhà thơ gửi gắm.
2.4.2. Ngôn
ngữ thơ giàu tính nhịp điệu
Trong thơ, sự phân dòng của lời thơ nhằm mục đích nhịp
điệu, tạo ra nhịp điệu thơ. Cuối mỗi dòng thơ đều có chỗ ngắt nhịp. Tuỳ theo số
chữ trong mỗi dòng mà nhịp thơ thể hiện khác nhau.Và theo từng cung bậc tình
cảm thì nhà thơ sử dụng thể thơ 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ hoặc dài hơn,
hoặc ngắn hơn chen nhau…Ngoài ra, trong các thể thơ Việt nam như lục bát, song
thất lục bát tứ tuyệt, hát nói…là những cấu tạo nhịp điệu đặc biệt, có lưng,
vần, chân, lối ngắt nhịp riêng độc đáo.
2.4.3. Ngôn
ngữ thơ giàu tính nhạc, tính hoạ
Bằng những âm
thanh luyến láy, bằng những từ ngữ trùng điệp, sự phối hợp bằng trắc và cách
ngắt nhịp, nhà thơ đã xây dựng nên những câu thơ, những hình tưọng thơ có sức
truyền cảm lớn, tạo nên những cung bậc tình cảm tinh tế của người nghệ sỹ.
Thơ được xây dựng bằng những hình tượng NT có sức gợi
cảm lớn. Thi trung hữu hoạ, trong thơ thể hiện những bức tranh hoàn mỹ mà người
đọc có thể hình dung khi cảm nhận những vần thơ khắc hoạ. Đó là tính hoạ trong
thơ.
2.4.4.Ngôn
ngữ thơ phải có tính biểu hiện:
VH nói chung, thơ ca nói riêng phản ánh hiện thực c/s
qua hình tượng NT. Nghĩa là điều mà nhà nghệ sĩ nhận thức, suy tư về c/s luôn
được thể hiện một cách gián tiếp. Để làm được điều này người nghệ sĩ đi vào
khai thác khả năng biểu hiện của ngôn ngữ. Đó là cách tổ chức sắp xếp ngôn ngữ
sao cho từ một hình thức biểu đạt có thể có nhiều nội dung biểu đạt. Đó là quá
trình chuyển nghĩa tạo nên lượng ngữ nghĩa kép trong thơ.
**********************************
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét