Tìm kiếm Blog này

Chủ Nhật, 16 tháng 10, 2016

Đề luyện tập



Đề 1. ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA MÔN VĂN NGÀY 8/1/2015



KÌ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA THPT
NĂM 2015 Môn: NGỮ VĂN
Thời gian: 180 phút (không kể thời gian giao đề)
Ngày thi: 08/01/2015
Câu 1 (8,0 điểm): 
Nếu không sống bằng cái đầu của mình thì có nghĩa là bạn đang sống bằng cái đầu của người khác.Ý kiến trên gợi cho bạn những suy nghĩ gì?
Câu 2 (12,0 điểm):
Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của nhà văn nhưng chỉ thực sự sống bằng tâm trí của người đọc.
Bằng tri thức và trải nghiệm văn học của mình, bạn hãy bình luận ý kiến trên.
-------------------HẾT-------------------
Đề 2.
Câu 1 : 8 điểm
Vào một buổi sáng lúc xe bus đến trạm dừng có một cậu bé trên người rất bẩn, đeo một chiếc túi trên lưng đi theo một người đàn ông bước lên xe, xe bus vào buổi sáng thường đông chật cứng người. Nhìn bộ dạng có vẻ như họ là công nhân xây dựng, vừa lúc có một người xuống xe, cậu bé liền ngồi vào chỗ đó còn người đàn ông thì đứng ở bên cạnh.
Không lâu sau, có một phụ nữ mang thai bước lên xe, cậu bé đứng dậy nhường chỗ và nói: “Cô ơi, cô ngồi xuống đi ạ!”
Người phụ nữ mang thai nhìn liếc qua cậu bé bẩn thỉu mà không nói lời nào, cậu bé nhẹ nhàng đặt chiếc túi xuống đất, rồi từ trong túi lấy ra một chiếc khăn tay và lau qua lau lại chỗ mình đã ngồi, sau đó mỉm cười nói: “Cô ơi, con lau sạch sẽ rồi, không còn bẩn nữa đâu”. Người phụ nữ nhìn cậu bé chằm chằm rồi đỏ mặt ngồi xuống.
Cậu bé vừa cầm cái túi lên thì đột nhiên chiếc xe phanh gấp, thân hình gầy gò của cậu suýt bổ nhào về phía trước nhưng tay vẫn ôm chặt chiếc túi ở trước ngực.
Một người phụ nữ lớn tuổi ngồi bên cạnh âu yếm nói: “Con thật là một cậu bé ngoan!”
Cậu bé cười một cách ngây thơ rồi nói: “Bà ơi, con không phải là đứa trẻ ngoan lắm đâu, mẹ con luôn mắng con vì lúc nào cũng để ý đến người ta nói gì, nghĩ gì về mình. Nhưng hiện giờ thì con đã dũng cảm như Forrest Gump rồi!”. Người phụ nữ mang thai ngồi trên ghế cúi mặt xuống.
Người phụ nữ lớn tuổi kinh ngạc hỏi: “Con cũng biết Forrest Gump sao?”
“Vâng ạ, mẹ thường đọc cho con nghe”.
“Đọc “Forrest Gump” con học được những gì?”, người phụ nữ hỏi.
Cậu bé nói rằng: “Điều con học được là, đừng quan tâm đến ánh mắt của người khác, hãy sống thật tốt và đi theo con đường riêng của mình
Anh/ chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về bài học mà cậu bé trong câu chuyện trên đã nhận được từ Forrest Gump
@ Forrest Gump là tác phẩm của nhà văn Winston kể về cậu bé Forrest Gump, một đứa trẻ không có cha, bị thiểu năng trí tuệ, lưng không thẳng, phải giữ chân bằng một khung sắt. Từ đôi bàn tay trắng cậu đã trở nên giầu có và nổi tiếng vì sự dũng cảm đương dầu với thử thách và thái độ nghiêm túc, chú tâm khi làm việc
Câu 2 : 12 điểm
Nhận xét về tác phẩm văn học Roman Ingaden cho rằng : ” Mọi tác phẩm văn học đều dang dở, luôn đòi hỏi sự bổ  sung mà không bao giờ ta đạt tới giới hạn cuối cùng bằng văn bản .
Anh/ chị hiểu ý kiến trên như thế nào? bằng những hiểu  biết của bản thân về tác phẩm văn học, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

Đề 3.

Câu 1 (8.0 điểm):

XA XỨ
Em tôi học đến kiệt sức để có một suất du học.
Thư đầu gửi về em viết: “ở đây, đường phố sạch đẹp, văn minh, bỏ xa lắc nước mình…”
Cuối năm viết: “muà đông bên này tĩnh lặng, tinh khiết như tranh, thích lắm…”
Muà đông năm sau viết: “Em thèm một chút nắng ấm quê nhà, muốn được đi giữa phố bụi bặm, ồn ào, nhớ bến chợ xôn xao, lầy lội… Biết bao lần trên phố, em đuổi theo một người Châu Á để hỏi có phải người Việt không…”

Nêu những cảm nhận và suy ngẫm cuả anh (chị) về câu truyện trên.
Câu 2 (12.0 điểm):
“Âm điệu là cỗ xe chuyên chở điệu hồn thi ca”.
Trình bày suy nghĩ cuả anh (chị) về ý kiến trên. 
Thu Trang chia sẻ với bạn đồng nghiệp và các em học sinh Đề thi chọn đội tuyển thi HSG Quốc gia môn Văn tỉnh Thanh Hoá năm 2015- vòng 1—
-----------------
Đề 4.
Câu 1 : 8 điểm
Steve Jops đã từng chia sẻ :là người thợ mộc tài hoa đóng ra cái tủ đẹp, bạn sẽ không sử dụng mảnh gỗ tầm thường cho mặt lưng tủ cho dù nó luôn xoay úp vào trong tường , chẳng ai có thể nhìn thấy song bản thân bạn biết rất rõ , nên sẽ  dành cho nó tấm gỗ đẹp.
Hãy trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ” cái tủ đẹp”  và những ngụ ý trong câu nói của  Steve Jops
Câu 2: 12 điểm
Lãng mạn và hiện thực là hai khuynh hướng văn học có những đặc điểm khác biệt, tuy nhiên trong một số tác phẩm đặc sắc của Việt Nam giai đoạn 1093- 1945 , hai khuynh hướng ấy có sự giao thoa và bổ sung cho nhau
Qua các truyện ngắn tiêu biểu đã học, anh chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
ĐỀ  5. THI HSG THPT LẦN 1 TỈNH NINH BÌNH NGÀY THI: 7/10/2015
Câu 1 (8 điểm):
        Không bao giờ có thể trả hết nợ cho người vì ta không những nợ tiền bạc mà còn nợ cả ân nghĩa nữa (Khuyết danh) . Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ về ý kiến trên.
Câu 2 (12 điểm):
        Mượn lời một nhân vật trong truyện ngắn Nhỏ Nhen, Nam Cao chủ trương: Nhà văn phải biết cách dùng những câu chuyện chẳng có gì để nói những cái sâu sắc.
        Bằng những hiểu biết của mình về truyện ngắn hiện đại Việt Nam, anh (chị) hãy làm rõ điều đó.
———-HẾT———-
ĐỀ6: THI HSG THPT LẦN 1 TỈNH NINH BÌNH NGÀY THI: 6/10/2015
Câu 1 (8 điểm):
Con người sinh ra không phải để tan biến đi như một hạt cát vô danh. Họ sinh ra để in dấu lại trên mặt đất, in dấu lại trong trái tim người khác. 
                                                                                                (Xukhômlinxki)
           Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên.
Câu 2 (12 điểm):
                                                   Mỗi công dân có một dạng vân tay,
                                                  Mỗi nhà thơ thứ thiệt cũng có một dạng vân chữ.
                                                  Không trộn lẫn.
                                                                                        (Vân chữ -Lê Đạt)
          Bằng những hiểu biết về trích đoạn Đất nước (trường ca Mặt đường khát vọng)  của Nguyễn Khoa Điềm và bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi đã học và đọc thêm trong chương trình Ngữ văn 12, anh (chị) hãy làm rõ dạng vân chữ của mỗi tác giả.———-HẾT———-
Đề 8. HSG Quốc gia 2013
Câu 1:Ý kiến của anh/ chị về nhận định “Mỗi con người sinh ra đều có sự bình đẳng, nếu có sự khác biệt là do học vấn”.
Câu 2: “Trong tác phẩm văn học, sáng tạo nghệ thuật quan trọng, đặc sắc nhất, nhiều khi không phải ở hình tượng con người 
mà ở hình tượng đồ vật, sự vật: Một thứ thuốc chữa bệnh quái lạ (Thuốc - Lỗ Tấn), một bức thư pháp đẹp và quý (Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân) một công trình kiến trúc kỳ vĩ, tinh xảo (Vũ Như Tô - Nguyễn Huy Tưởng), một cây đàn huyền thoại (Đàn ghi ta của Lor-ca - Thanh Thảo)… Đó là những đồ vật, sự vật mang ý 
nghĩa biểu trưng cho nhận thức, nhân cách, ý chí, khát vọng, số phận… của con người.”
Ý kiến của anh chị về nhận định trên? Hãy phân tích hai trong những hình tượng đồ vật, sự vật đã nêu để làm sáng tỏ ý kiến của mình”.
Đề 9. HSG Quốc gia 2014
Câu 1 : “Phải chăng, sống là tỏa sáng?”
Câu 2: 12 điểm
Nnhận định“Văn học chân chính ngay cả khi nói về cái xấu, cái ác cũng chỉ nhằm thể hiện khát vọng về cái đẹp, cái thiện” và một yêu cầu về thao tác lập luận“Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên”.


Đề 10.



Câu 1 (3,0 điểm)
Trong bức thư của một du học sinh Nhật bàn về “văn hóa Việt” có đoạn:
“Thật đáng tự hào vì Việt Nam có 4000 năm văn hiến. Thật xấu hổ nếu 4000 năm văn hiến chỉ là một chương trong sách lịch sử chứ không được thể hiện trong cách hành xử đời thường”.
Là một người Việt trẻ tuổi, anh/chị suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên?
Câu 2 (7,0 điểm)
Cảm nhận về nhân vật Mị Châu trong truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ, có người khẳng định: “Phút sai lầm của một người, dân tộc phải trả giá bằng ngàn năm nô lệ. Tội đó của Mị Châu không thể dung tha”.
Lại có người viết:
                   Am Mị Châu thờ bức tượng không đầu
                   Cảnh báo một trái tim khờ dại.
                   Thử hỏi, nửa thế giới này đang tồn tại
                   Đã yêu rồi, ai không giống Mị Châu?
(Vô đề - Hạnh Mai, Tạp chí Người Hà Nội, số 115, 8- 2009)
Thông qua việc phân tích nhân vật Mị Châu, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên và đưa ra quan điểm của bản thân mình.

                                                 --------- Hết ---------




Câu 1 (3,0 điểm)
I. Yêu cầu về kỹ năng
Biết cách làm bài văn nghị luận xã hội: Bố cục và hệ thống ý sáng rõ. Biết vận dụng và phối hợp nhiều thao tác nghị luận. Hành văn trôi chảy, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng chọn lọc, thuyết phục. Không mắc các lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả.
II. Yêu cầu về kiến thức
Bài viết phải đảm bảo những nội dung cơ bản sau:
1. Giải thích ý kiến
- Tự hào: là sự hãnh diện, tự tin về điều gì đó.
- 4000 năm văn hiến: là quá trình lịch sử dài lâu, gắn liền với công cuộc dựng nước và giữ nước, tạo nên những truyền thống văn hoá lâu đời và tốt đẹp của dân tộc.
- Xấu hổ: cảm giác hổ thẹn vì lỗi lầm hoặc sự kém cỏi, không xứng đáng.
- 4000 năm văn hiến chỉ là một chương trong sách lịch sử chứ không được thể hiện trong cách hành xử đời thường”: chỉ sự tương phản đầy nghịch lý, nhấn mạnh những truyền thống văn hoá lâu đời tốt đẹp chỉ là lý thuyết đóng khung trong sử sách, còn thực tế đời sống không chứng minh cho truyền thống văn hoá lâu đời đó.
Ý cả câu là một lời cảnh tỉnh đối với mỗi người Việt Nam: không nên ngủ quên trong quá khứ và hãnh diện về truyền thống văn hoá lâu đời của dân tộc mà cần để truyền thống văn hoá tốt đẹp đó thể hiện trong thực tế cuộc sống hàng ngày.
2. Phân tích lý giải
2.1. Vì sao nói “thật đáng tự hào vì Việt Nam có 4000 năm văn hiến”?
- Vì trong thực tế không phải dân tộc nào cũng có lịch sử phát triển lâu đời như vậy.
- Trong suốt 4000 năm dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần, hình thành bản sắc văn hoá của dân tộc với những nét tốt đẹp, biểu hiện phong phú ở nhiều lĩnh vực của đời sống.
2.2. Vì sao nóiThật xấu hổ nếu 4000 năm văn hiến chỉ là một chương trong sách lịch sử chứ không được thể hiện trong cách hành xử đời thường”?
- Vì 4000 năm văn hiến là nền tảng, hành trang quý báu, nhưng nó hoàn toàn là thành tựu của quá khứ. Không thể chỉ tự hào về những điều trong sử sách, vì văn hoá của một dân tộc cần biểu hiện thành những điều cụ thể trong cuộc sống hiện tại.
- Thực tế hiện nay đáng cảnh báo vì sự xuống cấp của những giá trị văn hoá trong lối sống, VD: truyền thống nhân đạo, tương thân tương ái ngàn xưa đang đứng trước nguy cơ bị đẩy lùi bởi thói vô cảm và chủ nghĩa cá nhân; truyền thống trọng tình nghĩa mai một trước chủ nghĩa thực dụng và toan tính....
3. Đánh giá
- Ý kiến trên có tác dụng nhắc nhở, cảnh tỉnh mỗi người Việt Nam nhìn lại chính mình, để biết trân trọng quá khứ của cha ông đồng thời có ý thức gìn giữ và phát triển những truyền thống văn hoá tốt đẹp trong hiện tại.
- Tuy nhiên, sẽ là phiến diện nếu không ghi nhận những tấm gương nỗ lực để bảo vệ và phát huy truyền thống đó trong đời sống. Từ đó, rút ra bài học nhận thức và hành động cho bản thân.
*Thang điểm:
- Cho điểm 3: hiểu đúng nội dung của câu nói và trình bày đầy đủ các ý trên, yêu cầu có lý lẽ, lập luận chặt chẽ, diễn đạt trong sáng.
- Cho điểm 2: đáp ứng được một nửa yêu cầu trên; lập luận chặt chẽ, diễn đạt trong sáng để làm sáng tỏ ý nghĩa của câu nói.
- Cho điểm 1: bài làm sơ sài, lập luận chưa chặt chẽ, còn một vài sai sót nhỏ về dùng từ, đặt câu…
         Lưu ý: Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, có thể có những ý kiến riêng, miễn sao phải phù hợp với yêu cầu của đề bài, diễn đạt trong sáng mạch lạc thì dù chọn cách nào thì  cũng được điểm tối đa.

Câu 2 (7,0 điểm)
I. Yêu cầu về kỹ năng
Hiểu đề, biết cách làm bài nghị luận văn học. Biết giải thích ý kiến, biết phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ nhận định. Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, hành văn trôi chảy, văn viết có cảm xúc. Không mắc các lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả.
II. Yêu cầu về kiến thức
1. Giải thích ý kiến

- Ý kiến thứ nhất nhấn mạnh vào hậu quả sự sai lầm của Mị Châu, từ đó đưa ra lời luận tội nghiêm khắc.
- Ý kiến thứ hai (phát biểu ở dạng tác phẩm thơ) thiên về tìm nguyên nhân của sự sai lầm,  đặt ra câu hỏi nhằm bênh vực Mị Châu, cho sự “khờ dại” đó là bản chất của tình yêu, bản chất của người phụ nữ khi yêu.
Mỗi ý kiến một quan điểm đánh giá khác nhau về nhân vật Mị Châu, kẻ kết tội, người bênh vực. Đó cũng là sự phong phú trong tiếp nhận văn học, sự hấp dẫn mà hình tượng văn học tạo ra.
2. Phân tích nhân vật Mị Châu, bình luận những ý kiến trên.
2.1. Phân tích nhân vật
- Giới thiệu khái quát về nhân vật
- Sự sai lầm của Mị Châu:
+ Mị Châu không chỉ là một người dân của đất nước Âu Lạc mà còn là một nàng công chúa, có vai trò quan trọng đối với cả quốc gia, nhưng nàng đã ngây thơ không cảnh giác, coi bí mật quốc gia như tài sản riêng của gia đình. Nàng cho Trọng Thuỷ xem nỏ thần, lại còn giảng giải cho y cách sử dụng nỏ. Hành động đó đã vô tình tiếp tay cho kẻ thù có thêm cơ hội thôn tính nước Âu Lạc.
+ Khi chiến tranh xảy ra, Mị Châu vẫn rắc lông ngỗng dọc đường chạy loạn. Một lần nữa Mị Châu đã vô tình chỉ dẫn cho quân giặc chạy theo, đưa hai cha con đến chỗ cùng đường tuyệt lộ. Nàng chỉ kịp nhận ra sự thật đau lòng trước lúc rơi đầu.
- Nguyên nhân của sự sai lầm: sự thiếu cảnh giác của bản thân nàng.
- Hậu quả của sự sai lầm: Dân tộc rơi vào chiến tranh, loạn lạc, nước mất, nhà tan. Nàng chết dưới lưỡi kiếm oan nghiệt của cha.
- Thái độ của tác giả dân gian với sai lầm đó của Mị Châu:
+ Tác giả dân gian đã để thần Kim Quy hiện lên quát lớn “Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó”. Câu nói ấy cũng đồng thời là lời kết tội đanh thép của công lí, của nhân dân cho hành động vô tình mà phản quốc của Mị Châu. Đó cũng là bài học đắt giá về mối quan hệ giữa tình cảm cá nhân với trách nhiệm công dân.
+ Hình ảnh máu Mị Châu chảy xuống biển thành ngọc, xác của nàng biến thành ngọc thành là những yếu tố kì ảo, minh chứng cho tấm lòng trong trắng mà bị lừa dối của nàng. Hình ảnh đó phần nào thanh minh cho sự vô tình gây tội của Mị Châu và thể hiện thái độ cảm thông, thương xót, bao dung của nhân dân đối với nàng.
2.2. Bình luận hai ý kiến
- Ý kiến thứ nhất đúng khi luận tội Mị Châu với những hậu quả mà sai lầm của nàng đã gây ra. Ý kiến thứ hai tỏ ra có lý khi tìm nguyên nhân của sự sai lầm là do bản chất của trái tim yêu.
- Tuy nhiên, cần đặt tình yêu đôi lứa trong mối quan hệ với vận mệnh quốc gia, vận mệnh
cộng đồng, để thấy: Trong một đất nước nhiều giặc giã, luôn đứng trước nguy cơ của những cuộc xâm lược, một nàng công chúa chỉ biết lắng nghe tiếng nói của con tim, của tình yêu mà vô tình với sự sống còn của xã tắc chính là có tội.
- Ngay bản thân Mị Châu trước khi chết cũng nhận ra tội lớn của mình, nàng chỉ mong rửa tiếng “bất trung, bất hiếu” chứ không kêu oan, cũng không xin tha tội. Mị Châu được người Âu Lạc xưa và người Việt Nam đời đời thương xót chính là vì đã biết tội, dám nhận tội và cam lòng chịu tội.
3. Quan điểm của cá nhân
HS có thể nêu quan điểm riêng của bản thân mình theo nhiều cách khác nhau vẫn có thể được chấp nhận, miễn là có các lập luận và lí lẽ logic, thuyết phục.

*Thang điểm:
-         Điểm 7: Đáp ứng những yêu cầu nêu trên. Văn viết có cảm xúc, dẫn chứng chọn lọc và thuyết phục. Diễn đạt trong sáng và lưu loát. Có thể còn vài sai sót nhỏ.
-         Điểm 5, 6: Đáp ứng được yêu cầu nêu trên. Dẫn chứng chưa thật phong phú nhưng phải làm rõ được nội dung, diễn đạt khá. Có thể còn vài sai sót nhỏ.
-         Điểm 3, 4: Hiểu đề, nêu được những nội dung chủ yếu, dẫn chứng chưa thật phong phú lời văn chưa hay nhưng rõ ràng. Có thể còn một vài lỗi dùng từ, diễn đạt .
-         Điểm 2: Chưa thật nắm vững yêu cầu của đề bài, kiến thức sơ sài hoặc diễn đạt lúng túng phân tích còn nhiều hạn chế, bố cục lộn xộn, mắc nhiều lỗi diễn đạt, dùng từ và ngữ pháp .
-         Điểm 1: Chưa nắm vững cả nội dung và phương pháp . Nội dung sơ lược, chung chung; nhiều lỗi dùng từ , lỗi câu.
-         Điểm 0:  Sai lạc hoàn toàn cả về nội dung và phương pháp.
-          Lưu ý:
+ Cần trân trọng những bài viết sáng tạo và có chất văn
+ Điểm bài thi cho từ điểm 0 đến điểm 7; điểm làm tròn tính đến 0,5.
Đề 11.

Câu 1 (3 điểm):  
 Trình bày suy nghĩ của anh ( chị) về câu chuyện ngụ ngôn sau đây:          
CHIM CHÀNG LÀNG
           Chàng Làng vẫn thường hãnh diện và kiêu ngạo về tiếng hót của mình hơn hẳn đồng loại. Nó có thể hót tiếng của nhiều loài chim. 
 Một hôm, nhân có mặt đông đủ bạn bè họ nhà chim, chú đậu tót lên cành cây cao rồi ưỡn ngực, vươn cổ cất tiếng hót. Chú hót say sưa, khi thì giống giọng của sáo đen, khi là giọng của chích chòe, hoạ mi...Ai cũng khen chú bắt chước giống và tài tình quá. Cuối buổi biểu diễn, một chú chim sâu đề nghị: Bây giờ anh hãy hót tiếng của riêng anh cho bọn em nghe nào! Chàng Làng đứng mãi mà không hót được giọng của riêng mình, Chàng Làng xấu hổ cất cánh bay thẳng. Bởi vì từ xưa đến nay, Chàng Làng chỉ quen nhại theo giọng hót của các loài chim khác chứ đâu chịu luyện một giọng hót riêng cho chính mình.
Câu 2 (7 điểm):
    Trong bài viết  Đặc sắc của văn học cổ điển Việt Nam qua nội dung Truyện Kiều, GS Đặng Thai Mai cho rằng:
     Truyện Kiều cũng như tất cả các áng văn tuyệt tác trong văn học thế giới dường như không hề biết già, mà lại còn có vẻ càng ngày càng trẻ nữa. Truyện Kiều có cả một vận mệnh vẻ vang.
Qua kiến thức về Nguyễn Du và Truyện Kiều đã học trong chương trình Ngữ văn lớp 10, hãy nêu nhận xét của anh chị về ý kiến trên.
…………………..Hết………………….


I. Hướng dẫn chung
- Giám khảo cần nắm vững yêu cầu của Hướng dẫn chấm để đánh giá tổng quát bài làm của thí sinh, tránh cách chấm đếm ý cho điểm.
          - Do đặc trưng của bộ môn Ngữ văn nên giám khảo cần chủ động, linh hoạt trong việc vận dụng đáp án và thang điểm; khuyến khích những bài viết có tư duy khoa học, lập luận sắc sảo, có khả năng cảm thụ văn học và tính sáng tạo cao.
          - Sau khi chấm xong, điểm toàn bài làm tròn đến 0,25 điểm.
II. Đáp án và thang điểm
Câu
Ý
                            Nội dung                     
Điểm
1

Trình bày suy nghĩ về câu chuyện Chim Chàng Làng
3,0

1
Nhận thức về câu chuyện(0,5 điểm)                                                                                                                                                                                                                            


- Câu chuyện kể về loài chim Chàng Làng( còn có tên khác là chim Bách Thanh), loài chim này có khả năng tuyệt vời là bắt chước giọng của những loài chim khác.
- Bản thân chú chim này rất tự hào về khả năng của mình và khi có mặt đông đủ bạn bè, họ hàng nhà chim chú lại trình diễn năng khiếu ấy cho mọi người thưởng thức.
- Tuy nhiên khi được đề nghị hót bằng giọng của mình thì chú xấu hổ bay đi mất vì xưa nay chú chỉ bắt chước, nhại theo chứ đâu có luyện cho mình một giọng hót riêng.
=> Câu chuyện phê phán thói bắt chước, nhại lại mà không chịu suy nghĩ, không chịu sáng tạo để làm nên phong cách riêng ở một số người.




0,5

2
Suy nghĩ của bản thân từ câu chuyện (2,0 điểm)


- Bắt chước là một thói quen được hình thành từ thuở ấu thơ, nó giúp con người học hỏi được mọi thứ từ thế giới xung quanh để thích nghi với cuộc sống.
- Bắt chước là giai đoạn đầu tiên của tư duy mà bất cứ ai cũng phải trải qua bởi khó có thể phát minh, sáng tạo ra cái mới nếu không dựa vào những ý tưởng cũ. Bắt chước trong một hoàn cảnh nào đó cũng được coi là tài năng nếu sự bắt trước y như thật.
- Tuy nhiên cuộc sống không ngừng đòi hỏi sự sáng tạo. Thành công của ngày hôm nay không thể giống với ngày hôm qua, ngày mai không thể giống ngày hôm nay vì thế con người không thể rập khuân, bắt chước những cái đã có.
- Câu chuyện đã phản ánh một thực trạng trong xã hội: nói theo, viết theo, nghĩ theo, hành động theo…nhất là đối với học sinh hiện nay. Việc bắt chước một cách máy móc đã làm các em mất đi phong cách riêng của mình, thui chột khả năng sáng tạo, ảnh hưởng lớn tới sự phát triển trong tương lai. 

0,5



0,5


0,25



0,75
3
Bài học nhận thức và hành động (0,5 điểm)


- Trong cuộc sống không tự biến mình thành những con chim Chàng Làng.
- Không ngừng học hỏi, không ngừng tư duy, sáng tạo để khẳng định mình và đi tới thành công.
0,25

0.25


2

Nhận xét về ý kiến của GS Đặng Thai Mai: Truyện Kiều cũng như tất cả các áng văn tuyệt tác trong văn học thế giới dường như không hề biết già, mà lại còn có vẻ càng ngày càng trẻ nữa. Truyện Kiều có cả một vận mệnh vẻ vang.
7,0


1
Giới thiệu vấn đề (0,5 điểm)


- Truyện Kiều - Nguyễn Du là kết tinh của tài năng văn học bậc thầy, là tác phẩm xuất sắc của văn học dân tộc.
- Đánh giá về Truyện Kiều, GS Đặng Thai Mai cho rằng: Truyện Kiều cũng như tất cả các áng văn tuyệt tác trong văn học thế giới dường như không hề biết già, mà lại còn có vẻ càng ngày càng trẻ nữa. Truyện Kiều có cả một vận mệnh vẻ vang.
0,25


0,25

2
Giải thích ý kiến(1,0 điểm)


- Áng văn tuyệt tác : Những tác phẩm văn chương hay, đẹp đến mức coi như không còn có thể đòi hỏi gì hơn, không thể có cái hơn. Già: Ở vào giai đoạn suy yếu. Không biết già: Trẻ mãi, giữ mãi vẻ thanh xuân và sức sống. Vận mệnh: Số mệnh, sự tồn tại. Vẻ vang: Vinh dự lớn và niềm tự hào chính đáng.
- Bằng lối so sánh, ví von GS Đặng Thai Mai đã thể hiện tiếng nói ngợi ca, tôn vinh giá trị giá trị của Truyện Kiều. Theo GS Truyện Kiều là một áng văn chương hay, đẹp đến hoàn mĩ. Dù tuổi đời cao nhưng không suy yếu mà giữ mãi vẻ đẹp thanh xuân và sức sống. Nó có một số mệnh vinh dự, tự hào.

0,5





0,5

3
Nhận xét về ý kiến (5,0 điểm)

a
Truyện Kiều là một áng văn hay, đẹp đến hoàn mĩ.(3,5 điểm)


- Về nội dung: Nguyễn Du đã biến một truyện tình khổ thành khúc ca đau lòng thương người bạc mệnh, nói lên những điều trông thấy trong giai đoạn lịch sử cuối Lê đầu Nguyễn, là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
- Về nghệ thuật: Truyện Kiều là kết tinh truyền thống văn học dân tộc, là đỉnh cao chói lọi của thể loại truyện thơ Nôm. Truyện Kiều có sự tài tình trong sử dụng thể thơ lục bát và ngôn ngữ dân tộc, xây dựng nhân vật sống động, có tính điển hình cao. Miêu tả tâm lí tinh tế, nghệ thuật tự sự cuốn hút, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình sâu xa.

2,0



1,5

b
Truyện Kiều giữ mãi vẻ đẹp thanh xuân và sức sống, là niềm vinh dự, tự hào của dân tộc Việt Nam( 1,5 điểm)


- Thời gian không bào mòn, không làm suy yếu đi giá trị Truyện Kiều, trái lại cũng giống như những áng văn tuyệt tác trên thế giới, cùng với thời gian, Truyện Kiều ngày càng được yêu mến, tôn vinh. Người ta lẩy Kiều, vịnh Kiều, bói Kiều, người ta bình Kiều trên các diễn đàn văn học. Truyện Kiều trở thành tác phẩm không thể thiếu trong các cấp học của nhà trường phổ thông.
- Với Truyện Kiều Nguyễn Du được tôn vinh là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Truyện Kiều có sức lan tỏa rộng, trở thành một hiện tượng trong đời sống văn học nước ta và trở thành di sản văn hóa của nhân loại.

1,0





0,5

4
Đánh giá(0,5 điểm)


- Ý kiến của GS Đặng Thai Mai cô đọng, súc tích, đúc kết sự hiểu biết, sự tôn vinh, ngợi ca, trân trọng đối với một áng văn chương tuyệt mĩ.
- Ý kiến có tác dụng định hướng, giúp người đọc lĩnh hội sâu sắc giá trị nội dung, nghệ thuật Truyện Kiều, hiểu vị trí Truyện Kiều trong nền văn học dân tộc cũng như thế giới.
0,25

0,25
Lưu ý chung: Thí sinh có thể làm bài theo những cách khác nhau, nhưng phải đảm bảo những yêu cầu về kiến thức. Trên đây chỉ là những ý cơ bản thí sinh cần đáp ứng; việc cho điểm cụ thể từng câu cần dựa vào sự vận dụng đáp án một cách khoa học và linh hoạt của người chấm.
Đề 12.
Câu 1 (3,0 điểm).
Có ý kiến cho rằng: Cuộc sống là nguyên liệu thô, chúng ta là những nghệ nhân. Nhào nặn nên một tác phẩm tuyệt đẹp hay một vật thể xấu xí tất cả đều nằm trong tay chúng ta.              
Suy nghĩ của Anh/chị về nhận định trên.

Câu 2 (7,0 điểm).
Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao và Thạch Lam qua hai truyện ngắn Đời thừaHai đứa trẻ.

----------Hết----------

















SỞ GD&ĐT VĨNH PHÚC
 


KỲ THI CHỌN HSG LỚP 11 THPT NĂM HỌC 2012-2013
ĐÁP ÁN MÔN: NGỮ VĂN
(Dành cho học sinh THPT chuyên)
Câu 1 (3,0 điểm).
I. Yêu cầu về kĩ năng
       Biết cách làm bài văn nghị luận xã hội. Bố cục và hệ thống ý sáng rõ. Biết vận dụng phối hợp nhiều thao tác nghị luận. Hành văn trôi chảy. Lập luận chặt chẽ. Dẫn chứng chọn lọc, thuyết phục. Không mắc các lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả.
II. Yêu cầu về kiến thức
Thí sinh có thể trình bày theo các cách khác nhau nhưng phải đảm bảo được những nội dung cơ bản sau:
1 Giải thích.
- Cuộc sống là nguyên liệu thô: Cách nói hình ảnh để chỉ những bộn bề phức hợp của cuộc sống: thuận lợi và khó khăn, tốt đẹp và ác xấu, bình lặng và bão giông.
- Nghệ nhân: con người tài năng, tâm huyết đạt đến độ tinh tuý trong công việc của mình.
- Nhào nặn nên một tác phẩm tuyệt đẹp hay một vật thể xấu xí tất cả đều nằm trong tay chúng ta: Từ nguyên liệu cuộc sống mỗi người sẽ tạo nên tác phẩm cuộc đời của mình.
- Câu nói đã khẳng định và đề cao vai trò quyết định của mỗi cá nhân đối với cuộc sống của chính mình. Chính thái độ sống, năng lực sống của bản thân sẽ làm nên giá trị, ý nghĩa cuộc sống của mỗi người.
2. Bàn luận, mở rộng.          
- Đây là một quan điểm sống tích cực, mạnh mẽ và sâu sắc.
- Cuộc sống luôn mang trong mình những bộn bề, phức tạp, nếu chúng ta sống một cách chủ động và tích cực, biết gạn lọc những cái xấu, tận dụng và phát huy những điều tốt đẹp, biến khó khăn, thử thách thành cơ hội thì ta sẽ có một tác phẩm cuộc đời mình thật tuyệt đẹp.
- Nếu buông xuôi và phó mặc, bị động và để cuộc sống trôi đi, khi ấy tác phẩm cuộc đời của mỗi chúng ta chỉ là những vật thể xấu xí.
- Mở rộng và nêu phản đề: Tuy nhiên, không phải lúc nào, không phải với bất cứ ai, muốn trở thành thế nào cũng được. Tác phẩm cuộc đời của mỗi người còn chịu sự tác động không nhỏ của hoàn cảnh khách quan.
3. Liên hệ bản thân và rút ra bài học.
            Mỗi người phải chủ động trang bị kiến thức, rèn luyện cách sống bản lĩnh, có lí tưởng, có ước mơ. Hãy cố gắng trở thành những nghệ nhân chuyên tâm và tài hoa nhất để làm nên tác phẩm tuyệt đẹp cho cuộc đời mình.
III. Biểu điểm:
- Điểm 3,0: Đáp ứng được các yêu cầu nêu trên; Văn viết có cảm xúc. Dẫn chứng chọn lọc và thuyết phục.
- Điểm 2,0: Cơ bản đáp ứng được các yêu cầu nêu trên. Dẫn chứng chưa thật phong phú. Có thể còn một vài sai sót nhỏ.
- Điểm 1,0: Chưa hiểu chắc yêu cầu của đề bài. Kiến thức sơ sài. Còn mắc nhiều lỗi.
- Điểm 0: Không hiểu đề, sai lạc phương pháp.
Câu 2 (7,0 điểm)
I. Yêu cầu về kĩ năng
Hiểu đề, biết cách làm bài văn nghị luận văn học. Biết phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề. Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Hành văn trôi chảy. Văn viết có cảm xúc. Không mắc các lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả.
II. Yêu cầu về kiến thức
Thí sinh phải làm rõ tư tưởng nhân đạo của hai nhà văn lớn Nam Cao và Thạch Lam qua hai tác phẩm Đời thừaHai đứa trẻ trong sự đối sánh. Từ đó thấy rõ những điểm tương đồng và khác biệt. Thí sinh có thể trình bày theo các cách khác nhau nhưng cần đảm bảo được các ý sau:
1. Giải thích:
- Nhân đạo là đạo lí hướng tới con người, vì con người, là tình yêu thương giữa người với người.
- Nhà văn chân chính là những nhà nhân đạo chủ nghĩa, phất cao ngọn cờ đấu tranh giải phóng con người và bênh vực quyền sống cho con người.
- Trong tác phẩm văn học, tư tưởng nhân đạo là tình cảm, thái độ của chủ thể nhà văn đối với cuộc sống con người được miêu tả trong tác phẩm thể hiện cụ thể ở lòng xót thương những con người bất hạnh; phê phán những thế lực hung ác áp bức, chà đạp con người; trân trọng những phẩm chất và khát vọng tốt đẹp của con người, đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người... Đồng thời, tư tưởng nhân đạo được thể hiện qua các hình tượng nghệ thuật, qua cảm hứng, cảm xúc, giọng điệu...
- Cảm hứng nhân đạo cùng với cảm hứng yêu n­ước là hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ nền văn học Việt Nam. Về cơ bản có những biểu hiện chung song ở mỗi thời kì, giai đoạn, do hoàn cảnh lịch sử xã hội, do ý thức hệ t­ư t­ưởng của các nhà văn khác nhau nên có những biểu hiện riêng. Hai đứa trẻ của Thạch Lam và Đời thừa của Nam Cao là những tác phẩm điển hình thể hiện cảm hứng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
2. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn Thạch Lam và Nam Cao qua Hai đứa trẻĐời thừa.
2.1,  Sự gặp gỡ:
a. Thạch Lam và Nam Cao đều thể hiện thái độ đồng cảm, xót thương với những số phận bất hạnh trong xã hội cũ trước năm 1945.
- Hai đứa trẻ: Qua khung cảnh phố huyện nghèo đói, lụi tàn, Thạch Lam muốn bày tỏ niềm xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh, không bao giờ biết đến ánh sáng hạnh phúc. Họ phải sống cuộc đời tẻ nhạt, vô nghĩa, đời sống cạn kiệt, mỏi mòn về cả vật chất và tinh thần.
- Đời thừa: Qua số phận nhân vật văn sĩ Hộ, một con người có khát vọng, có ước mơ hoài bão cao đẹp. Con người coi tình thương là lẽ sống, nhưng vì gánh nặng cơm áo mà phải chịu tấn bi kịch đời thừa, vi phạm lẽ sống tình thương. Nam cao bày tỏ niềm xót thương với người trí thức tiểu tư sản.
b. Gián tiếp tố cáo, lên án xã hội thực dân nửa phong kiến đẩy con người vào cuộc sống khốn cùng.
- Hai đứa trẻ: Gián tiếp tố cáo, lên án xã hội thực dân nửa phong kiến đẩy con người vào cuộc sống mòn mỏi, vô nghĩa nơi phố huyện , miền đất bị lãng quên trong đói nghèo tăm tối.
- Đời thừa: Gián tiếp tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến đày đoạ con người trong sự nghèo đói, vùi dập những ước mơ làm chết mòn đời sống tinh thần, lẽ sống, nhân cách cao đẹp của con người.
c. Cả hai nhà văn đều trân trọng tình người, đồng cảm với những ­ước mơ, nguyện vọng chính đáng, ý thức cuộc sống hạnh phúc cá nhân của con người.
- Hai đứa trẻ:  Thạch Lam muốn đánh thức, lay tỉnh những tâm hồn đang uể oải, lụi tàn ngọn lửa của lòng khát khao được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát được thoát ra khỏi cuộc sống tăm tối, tù đọng, mòn mỏi đang muốn chôn vùi họ.
- Đời thừa: Nam Cao thức tỉnh sâu sắc ý thức cá nhân về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời. Viết Đời thừa, Nam Cao đã đồng tình với khát vọng được cống hiến được sáng tạo của người nghệ sĩ chân chính. Qua tấn bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ, Nam Cao thể hiện khát vọng của con người vươn tới một cuộc sống có ích, có ý nghĩa, được phát huy cao độ khả năng tiềm tàng chứa đựng trong mỗi con người.
d. Cùng yêu thương con người, trân trọng con người nhưng cả Thạch Lam và Nam Cao đều chưa chỉ ra con đường để nhân vật của mình đi từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui của cuộc đời mới. Họ nhìn đời, nhìn người bằng con mắt tình thương nhưng chưa gắn với tinh thần đấu tranh cách mạng.
            - Hai đứa trẻ: Kết thúc với chi tiết phố huyện lại chìm trong sự tĩnh mịch và đầy bóng tối.
            - Đời thừa: Kết thúc bằng lời ru ai oán của Từ.
e. Nguyên nhân của sự gặp gỡ.
- Do hoàn cảnh lịch sử xã hội: Nam cao và Thạch Lam sống và sáng tác trong môi trường xã hội thực dân nửa phong kiến thiếu sinh khí, ngột ngạt và tăm tối về tinh thần.
- Do ảnh hưởng của ý thức hệ t­ư t­ưởng phương Tây, đề cao cái tôi cá nhân của con người.
- Thạch Lam và Nam Cao đều là các nhà văn chân chính, đều là những nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ (Sê-khốp).
  2.2. Những khám phá riêng:
a. Thể hiện thái độ đồng cảm, xót thương với những số phận bất hạnh trong những hoàn cảnh khác nhau.
- Hai đứa trẻ: Thạch Lam sống gắn bó và nặng lòng với tầng lớp thị dân nghèo,  những kiếp người nhỏ bé sống quẩn quanh. Nên ông viết về họ với một niềm chân tâm, chân cảm, thấu hiểu tột cùng với muôn nỗi khốn khó trong cuộc sống của họ.
-  Đời thừa: Nam Cao viết về người tri thức tiểu tư sản trong trạng thái căng nọc mình trên trang giấy, nên mỗi trang văn của ông đã khơi dậy những bi kịch tinh thần thầm kín, day dứt của người trí thức tiểu tư sản hay cũng chính là những day dứt của nhà văn.
b. Khám phá những sắc thái, cung bậc khác nhau trong nỗi đau tinh thần của con người.
- Hai đứa trẻ: Trước đây văn học chú ý đến cái đói vật chất (như nỗi đau dân nô, thời thế...) giờ văn học của ý thức cá nhân mới chạm đến được cái buồn chán cá nhân, tới nỗi đau riêng của mỗi người. Cái nghèo là cái đói vật chất, cái buồn chán là cái đói tinh thần, âm ỉ hơn, tê tái hơn. Nỗi đau tinh thần của con người nơi phố huyện được Thạch Lam miêu tả trong một sắc thái nhẹ nhàng nhưng gieo vào lòng người đọc rất nhiều bận bịu.
- Đời thừa: Nam Cao cũng miêu tả cái nghèo đói về vật chất và tinh thần nhưng  cả cuộc đời Hộ đau nỗi đau triền miên dai dẳng, âm ỉ và dày vò. Nó tàn phá cuộc sống của Hộ khiến cuộc sống của anh mòn mục, rỉ ra trong kiếp đời thừa.
c. Thái độ thấu hiểu, tin yêu vào con người khác nhau.
            - Hai đứa trẻ: Ngòi bút của Thạch Lam tin yêu vào con người nên trong tác phẩm của ông, dù nhân vật phải sống cuộc sống mòn mỏi, tù túng thì nhà văn vẫn dẫn dắt nhân vật hướng về phía ánh sáng của sự sống. Vì thế, Hai đứa trẻ mang âm hưởng lãng mạn bay bổng.
-  Đời thừa: Trong khi miêu tả con người bị đẩy vào tình trạng có những hành động tàn nhẫn, nằm bên bờ vực của sự tha hoá, Nam Cao vẫn dứt khoát không chấp nhận cái ác, vẫn kiên định giữ vững nguyên tắc tình thương của mình, quyết không bỏ lòng thương. Nam Cao đặt niềm tin sâu sắc vào con người. Những giọt nước mắt đầy xót thương chảy dài cuối tác phẩm đã cho ta thấy điều đó.
d. Nghệ thuật thể hiện khác nhau.
- Hai đứa trẻ: Truyện ngắn của Thạch Lam thường không có cốt truyện, mỗi truyện như một bài thơ. Trong “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam chú trọng đi sâu vào nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ mong manh. Thạch Lam đã sử dụng thành công thủ pháp nghệ thuật đối lập tương phản. Thạch Lam có một phong cách, một giọng điệu rất riêng. Đó là lối kể chuyện thủ thỉ, tâm tình thấm đượm chất thơ. Người đọc thấy ẩn hiện, kín đáo, lặng lẽ sau những hình ảnh, những dòng chữ, một tâm hồn Thạch Lam đôn hậu, tinh tế, hết sức nhạy cảm với mọi biến thái của tạo vật và lòng người.
- Đời thừa: Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao được truyền tải tới người đọc qua thể loại truyên ngắn mang tính luận đề. Nam Cao đã khéo léo tạo tình huống đầy kịch tính để đẩy xung đột nội tâm nhân vật đến đỉnh điểm. Cách xây dựng truyện rất tự nhiên, dung dị nhưng vẫn gây được ấn tượng sâu đậm và tạo được hiệu quả nghệ thuật cao. Cách dẫn chuyện linh hoạt, phóng túng mà vẫn nhất quán chặt chẽ. Nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lý đạt đến bậc thầy. Giọng văn lạnh lùng đôi khi tàn nhẫn nhưng ẩn chứa trong đó tinh thần nhân đạo thống thiết.
e. Nguyên nhân của nét khác biệt:
- Bản chất của văn chương là sáng tạo.
- Mỗi nhà văn cá tính riêng, phong cách riêng. Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc còn Thạch Lam là cây bút tiêu biểu cho Tự lực văn đoàn.
3. Đánh giá:
- Vừa kế thừa tư tưởng nhân đạo truyền thống, mặt khác lại có thêm những nét sâu sắc, mới mẻ. Thạch Lam và Nam Cao xứng đáng là những nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Họ đã làm phong phú thêm chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam.
- Bài học cho sáng tạo nghệ thuật: Có được một giọng điệu riêng, phong cách độc đáo là hết sức khó, nhưng đó là điều kiện và yêu cầu của sáng tạo nghệ thuật. Muốn có được điều đó cần tạo ra được cách cảm và đặc biệt cách thể hiện khác nhau. Tuy nhiên cái gốc của nhà văn vẫn là tấm lòng “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” vì thế trên hết nhà văn phải viết vì cuộc đời, vì con người, tức là phải là nhà văn nhân đạo chủ nghĩa
III. Biểu điểm:
- Điểm 7,0: Đáp ứng được yêu cầu nêu trên, văn viết sâu sắc, diễn đạt trong sáng. Bài viết thể hiện sự sáng tạo, cảm thụ riêng.
- Điểm 5-6: Cơ bản đáp ứng được yêu cầu trên, văn viết chưa thật sâu sắc nhưng diễn đạt trong sáng. Có thể  mắc một vài sai sót nhỏ.
- Điểm 3-4: Cơ bản hiểu yêu cầu của đề. Bố cục bài viết rõ ràng. Chọn và phân tích được dẫn chứng song ý chưa sâu sắc. Có thể mắc một vài sai sót nhỏ.
- Điểm 1-2: Chưa hiểu rõ yêu cầu của đề. Diễn đạt lúng túng, trình bày cẩu thả.
- Điểm 0: Sai lạc cả nội dung và phương pháp.
* Lưu ý:  
            - Giám khảo nắm vững yêu cầu của hướng dẫn chấm để đánh giá tổng quát bài làm của thí sinh. Cần khuyến khích những bài viết có chất văn, có những suy nghĩ sáng tạo.
            - Việc chi tiết hóa điểm số của các câu, các ý phải đảm bảo không sai lệch với tổng điểm của câu và được thống nhất trong hội đồng chấm. Điểm lẻ được làm tròn đến 0,25 điểm sau khi đã chấm xong và cộng tổng điểm toàn bài.
----------Hết----------
Bottom of Form


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét